Thứ Tư, 29 tháng 11, 2017

Diễn biến hòa bình

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Diễn biến hòa bình là khái niệm của một số nhà nước Xã hội chủ nghĩa sử dụng để nói về một chiến lược chính trị của các nước tư bản chủ nghĩa chống lại chủ nghĩa xã hội. Đó là một diễn biến không đổ máu nhưng mà nó dẫn đến sự loại bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản tại các nước Xã hội chủ nghĩa [1]. Hiện nay, khái niệm này cũng được dùng để chỉ sự âm thầm can thiệp của một nước phương Tây vào tình hình chính trị nội bộ của một nước đối thủ, dù đó không phải một nước xã hội chủ nghĩa, ví dụ như Nga.[2]
Từ diễn biến hòa bình lần đầu tiên được đề cập tới trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh bởi John Foster Dulles, cựu ngoại trưởng Mỹ trong những năm 1950, khi nói về cách đối phó với Liên Xô.[3] Ý niệm này được Dulles mô tả là một quá trình chuyển đổi "hòa bình" từ một thể chế mà chính phủ Mỹ xem là độc tài sang dân chủ tại một nước cộng sản.[4] Trung Quốcdưới thời Mao Trạch Đông đã tuyên bố chống lại "diễn biến hòa bình" từ năm 1959.[5] Nhất là sau sự kiện Thiên An Môn, báo chí Trung Quốc càng nhấn mạnh "thủ đoạn diễn biến hoà bình" của Tây phương để đánh đổ các Nhà nước cộng sản chủ nghĩa.[6]
Một số biến động dưới dạng "diễn biến hòa bình" gần đây diễn ra ở một số quốc gia[7] đã làm thay đổi mô hình chính trị của một đất nước, như việc "tự diễn biến" ở Miến Điệnchuyển từ một chế độ quân phiệt (quân đội nắm quyền) sang mô hình nghị viện đầu phiếu[8] hay ở Đông Đức bãi bỏ Nhà nước Cộng sản chủ nghĩa.[9]

Nguồn gốc[sửa | sửa mã nguồn]

Từ "diễn biến hoà bình" đã được biến đổi bởi John Foster Dulles, từ một học thuyết ban đầu được vạch ra bởi George F. Kennan, trong cái gọi là điện tín dài vào ngày 22 tháng 2 năm 1946, đã đề xuất rằng các khối xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa có thể đạt đến trạng thái "sống chung hòa bình." [10]
Điều này đã được bổ sung bởi Dulles hơn một thập kỷ sau đó, trong bài phát biểu vào năm 1957-1958, để "thúc đẩy diễn biến hòa bình hướng tới dân chủ."[10]
Trong một bài phát biểu, Dulles nhắc tới "việc sử dụng các biện pháp hòa bình" để "đẩy nhanh quá trình tiến hóa của các chính sách của chính phủ trong khối Trung-Xô" để "rút ngắn tuổi thọ dự kiến của chủ nghĩa cộng sản." [11] Những trợ giúp của phương Tây và thương mại được cho là hai trong số những công cụ chính của kế hoạch này để tạo ra một chính quyền tự do hơn ở Trung Quốc.
Theo Bạc Nhất Ba (cha của Bạc Hy Lai), Mao Trạch Đông khi nghe nói về những nhận xét ​​của Dulles, cho đó là nghiêm trọng, đã ra lệnh các cán bộ hàng đầu của Đảng nghiên cứu về phát biểu này.[10][12] Mao thấy ý tưởng về "diễn biến hoà bình" như là một đe dọa nghiêm trọng, một "chiến thuật lừa đảo lớn" đến một Trung Quốc tham nhũng, và một cuộc chiến tranh chống lại phương tiện quân sự của các cường quốc xã hội chủ nghĩa.[10] Mao cảm thấy rằng cuộc chiến đã được tiến hành, với một số hiệu quả, chống lại Liên Xô. Sau sự sụp đổ của Liên Xô, những người cộng sản Trung Quốc càng trở nên quan tâm nhiều hơn về chiến lược này.[12]

Luận điểm của chính quyền Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]

"Diễn biến hòa bình" cũng được Chính phủ Việt Nam nói về các hoạt động của một số cá nhân hoặc phong trào tự xưng là vận động dân chủ, nhân quyền trong và ngoài nước để có các hành vi "tuyên truyền chống nhà nước Việt Nam", hoặc các tiếng nói "đối nghịch và vi phạm pháp luật Việt Nam".[13] Một mặt, Việt Nam tiếp tục hội nhập, xây dựng quan hệ trên mọi mặt với các quốc gia phương Tây (như MỹEU), mặt khác Nhà nước Việt Nam vẫn đề phòng sự can thiệp của các nước phương Tây vào tình hình chính trị Việt Nam.
Ngoài diễn biến hòa bình do bên thứ ba tác động, một phần quan trọng khác là "tự diễn biến hòa bình", tức là nhận thức của cá nhân hay tổ chức trong nước tự thay đổi, làm chủ nghĩa cá nhân trỗi dậy, lây lan trên diện rộng khiến "xa rời mục tiêu chủ nghĩa xã hội" mà nhà nước đề ra.[14]

Khái niệm chính thống[sửa | sửa mã nguồn]

Theo định nghĩa của Từ điển Bách khoa Việt Nam của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam thì:[15]

Đối tượng tác động[sửa | sửa mã nguồn]

Để đạt được mục tiêu đề ra, phạm vi tác động của "diễn biến hòa bình" về tư tưởng và lý luận tập trung hướng tới bao gồm [cần dẫn nguồn].
  • Một bộ phận cán bộ trong Đảng, kể cả cán bộ cấp cao, đang giữ những vị trí trọng trách trong bộ máy quản lý nhà nước và hệ thống chính trị, cán bộ hoạch định chiến lược, cán bộ làm công tác tư tưởng lý luận, công tác, tổ chức...
  • Trí thức và tầng lớp văn nghệ sĩ - một lực lượng nhạy cảm chính trị xã hội cao, thường chịu sự tác động rất nhanh nhạy trước những biến cố xã hội.
  • Thanh niênsinh viên, lực lượng đông đảo và có vai trò to lớn trong đời sống xã hội, là bộ phận năng động, nhạy bén, có khả năng tiếp nhận và thích nghi với cái mới nhanh, nhiệt tình, xông xáo; nhưng vốn sống và kinh nghiệm ít, kiến thức và bản lĩnh chính trị hạn chế, mức độ kiềm chế và năng lực đề kháng trước những cám dỗ thấp, dễ bị lôi kéo bởi những luồng thông tin sai lệch.
  • Những phần tử cơ hội chính trị có quan điểm sai trái, đối lập với chủ trương đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đây là những thành phần cực đoan giàu tham vọng chính trị, sẵn sàng tiếp tay cho nước ngoài, tập hợp lôi kéo xây dựng lực lượng chống phá ra từ bên trong.
  • Một bộ phận nhân dân do thiếu hiểu biết, thiếu thông tin, hoặc bị kẻ xấu lợi dụng mua chuộc dụ dỗ, đặc biệt là đồng bào dân tộc ít người, đồng bào theo các tôn giáo... Bộ phận này thường bị kích động, lôi kéo, trở thành quân cờ chính trị trong tay các thế lực thù địch. Bộ phận này có vai trò như một công cụ gây áp lực chính trị, buộc chính phủ Việt Namnhượng bộ thay đổi đường lối [cần dẫn nguồn].

Mục tiêu[sửa | sửa mã nguồn]

Mục tiêu của Diễn biến hòa bình tập trung ở các khía cạnh:[16]
  • Về hệ tư tưởng: Dùng nhiều kế hoạch và phương tiện, tuyên truyền nhằm xuyên tạc, phủ định chủ nghĩa Marx LeninTư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như những nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ đó gây "tự diễn biến", hòng tạo ra sự khủng hoảng về lý tưởng chính trị, làm suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Từ đó làm chệch hướng và sụp đổ chế độ chính trị, từng bước thay thế chủ nghĩa Marx Lenin và Tư tưởng Hồ Chí Minh bằng ý thức hệ tư bản chủ nghĩa.
  • Về định hướng phát triển: Xóa bỏ chủ nghĩa xã hội, mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam và dân tộc Việt Nam. Tạo áp lực và gây sức ép buộc Việt Nam quay trở lại chủ nghĩa tư bản. Ví dụ như:
  • Về thể chế pháp luật: Đòi xóa bỏ Điều 4 của Hiến pháp, thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng, thực hiện đa nguyên, đa đảng.[17]
Mục tiêu chung của diễn biến hòa bình là làm cho đại đa số cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, từ cán bộ cấp cao cho đến dân thường đều có chung tâm trạng hoài nghi, dao động.[18]

Các sách lược[sửa | sửa mã nguồn]

Theo quan điểm của nhà nước Việt Nam, các sách lược của Diễn biến hòa bình diễn ra trên nhiều lĩnh vực:

Về chính trị - xã hội[sửa | sửa mã nguồn]

  • Phối hợp đồng bộ giữa bên ngoài và bên trong mà chủ yếu là triệt để khai thác các phần tử bất mãn chống đối trong nước, nhất là một số trí thức và cán bộ biến chất, các phần tử cơ hội chính trị, tập trung xuyên tạc và phủ định chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh với mưu đồ dùng chính cộng sản chống lại và phản bác chủ nghĩa cộng sản. Trọng tâm là làm cho quần chúng nhân dân, kể cả một bộ phận cán bộ, đảng viên xa rời chủ nghĩa Marx, xa rời tư tưởng Hồ Chí Minh.
  • Sử dụng chính những kẻ cơ hội và Đảng viên biến chất. Mục tiêu của tự diễn biến trong nội bộ Đảng là tách Đảng ra khỏi dân, đối lập Đảng với dân. Thông qua thổi phồng khuyết điểm, yếu kém của chính những phần tử cơ hội, bọn quan liêu, tham nhũng để quy chụp, đánh đồng những Đảng viên xấu, hủ bại với những Đảng viên tốt, trung kiên; nhằm làm cho quần chúng nhân dân lẫn lộn tốt-xấu, đánh đồng những cá nhân biến chất với lý tưởng cộng sản và tổ chức Đảng nói chung.
  • Thông qua các hiện tượng cụ thể có thật, những yếu kém, bất cập của chính phủ, nhưng được nhào nặn, bóp méo, cường điệu với dụng ý xấu, nhằm quy kết và phủ định những thành quả của đổi mới, xuyên tạc nhằm bôi đen chế độ, phủ định con đường chủ nghĩa xã hội.
  • Về xã hội: lợi dụng các mâu thuẫn, khiếu kiện, các chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền" và "tôn giáo" để can thiệp vào tình hình nội bộ, phá hoại sự ổn định của Việt Nam.
  • Về quốc phòng - an ninh: xuyên tạc đường lối, chính sách quốc phòng-an ninh, đối ngoại của Đảng-Nhà nước. Thực hiện mưu đồ "phi chính trị hóa" Quân đội Nhân dân Việt Nam và công an nhân dân… làm mất lý tưởng, sức chiến đấu của lực lượng vũ trang để sẵn sàng tạo cớ răn đe, can thiệp quân sự hoặc xâm lược khi điều kiện chín muồi.
  • Về kinh tế: xuyên tạc đường lối, chính sách kinh tế; thúc đẩy chuyển hoá cơ cấu kinh tế, thành phần kinh tế, xâm nhập, chiếm lĩnh các địa bàn, các lĩnh vực kinh tế quan trọng nhằm tước bỏ vai trò điều hành nền kinh tế của Nhà nước; từ đó thúc đẩy, chuyển hóa nền kinh tế sang quỹ đạo tư bản chủ nghĩa.[19]
  • Về lịch sử: xuyên tạc lịch sử dân tộc và bôi nhọ uy tín của các nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam. [cần dẫn nguồn]

Về truyền thông, giáo dục và văn hóa[sửa | sửa mã nguồn]

  • Về truyền thôngbáo chí: Thông qua con đường hợp tác trên các lĩnh vực giáo dục đào tạo, báo chí, truyền thông, hội thảo, triển lãm, tài trợ… để từng bước hình thành các tổ hợp, tập đoàn, câu lạc bộ, báo chí tư nhânnhà xuất bản tư nhân, trang thông tin điện tử, cơ quan ngôn luận ngầm ủng hộ diễn biến hòa bình.[20]
  • Về giáo dục: thông qua các chương trình đưa cán bộ ra nước ngoài học tập, nghiên cứu bằng nhiều nguồn vốn khác nhau, nhất là nguồn tài trợ nước ngoài, hòng tạo ra một “thế hệ cán bộ thân phương Tây”, sau này nắm dần các cương vị trọng yếu trong hệ thống chính trị. Mặt khác, thông qua việc hợp tác đào tạo tại Việt Nam để truyền bá các quan điểm xa lạ, gạt bỏ hệ tư tưởng cách mạng trong học viên[21].
  • Về văn hóa: Thông qua việc cấp tiền cho các tổ chức phi chính phủ nhằm đẩy mạnh truyền bá lối sống suy đồi, đề cao vật chất, văn hóa hưởng thụ, tung hô "cái tôi cá nhân" và tôn sùng lối sống kiểu phương Tây, bao gồm:
Như Tổng thống Mỹ Ronald Reagan từng tuyên bố: "Đầu tư cho HS-SV các nước XHCN đang du học ở Mỹ là một khoản đầu tư lâu dài, hãy gây ảnh hưởng tư tưởng với họ, hun đúc họ trong lối sống và giá trị quan niệm văn minh Mỹ, chờ họ từng bước trở thành rường cột của xã hội họ, rồi thông qua cái đầu của họ biến đất nước đó chuyển mình theo nền văn minh tư bản của ta" [cần dẫn nguồn].
Bản chất của chiến lược "diễn biến hòa bình" là không hề thay đổi, song phương thức, biện pháp tiến hành "diễn biến hòa bình" thì biến hóa khôn lường và ngày càng tinh vi, đa dạng.[19]

Diễn biến hòa bình tại Liên Xô[sửa | sửa mã nguồn]

Tại Liên Xô, phương Tây đã thành công trong việc cài cắm những nhân vật có tư tưởng sùng bái phương Tây nắm quyền tại các cơ quan truyền thôngbáo chítuyên truyền lớn của đất nước. Ví dụ, từ 1986 đến 1988, một loạt cán bộ chủ chốt của các tờ báo có ảnh hưởng lớn tại Liên Xô được thay thế bởi những người ủng hộ chủ trương “Tây hóa”, từ đó các tờ báo này đã gây khuynh đảo dư luận, làm cho nhiều người ngộ nhận và ảo tưởng đối với chủ nghĩa tư bản phương Tây, tạo tiền đề để gây sự bất mãn trong nhân dân, khiến họ quay sang công kích chủ nghĩa xã hội.[22] Năm 1959, lần đầu tiên có 4 cán bộ của Liên Xô sang học ở Mỹ, 2 trong số đó là A. Yakovlev, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng phụ trách công tác tư tưởng-lý luận và tướng tình báo C. Danilovich về sau đã có liên hệ với tình báo Mỹ (CIA)[22]
Tháng 1/1987, Gorbachev đề xướng phong trào xét lại lịch sử Liên Xô, các nhà báo được cài cắm trong các cơ quan báo chí lập tức viết hàng loạt bài công kích: công nghiệp hóa đất nước của Stalin là "vô tích sự", phóng đại sai sót của Stalin thời kỳ đầu chiến tranh, thậm chí phủ nhận thắng lợi của chiến tranh Vệ quốc vĩ đại. Sau đó, việc phê phán Stalin dần dần chuyển sang phê phán, phủ định thành quả của Cách mạng Tháng MườiChủ nghĩa Marx - Lenin. Các loại ấn phẩm, phát thanh truyền hình quay sang chỉ trích lịch sử cách mạng, mặt trận báo chí của Đảng Cộng sản Liên Xô dần bị "đánh chiếm", tư tưởng Đảng viên và nhân dân Liên Xô trở nên dao động dữ dội, lòng tin vào sự nghiệp Cách mạng sụt giảm nghiêm trọng, trong khi những luận điệu phê phán dù vô căn cứ lại được coi là chân lý. Kết quả là trong lúc nguy cấp, đã không còn ai đứng lên để bảo vệ Đảng Cộng sản và chủ nghĩa xã hội. Năm 1994, nhà văn Yuri Boldarev khi nhìn lại tình cảnh của thời kỳ này đã nói: “Trong sáu năm, báo chí Liên Xô đã thực hiện được mục tiêu mà quân đội Đức Quốc xã tinh nhuệ nhất cũng không thể thực hiện được khi xâm lược nước ta vào những năm 1940. Quân đội Đức có thiết bị kỹ thuật hàng đầu nhưng thiếu một thứ, đó là hàng triệu ấn phẩm mang vi khuẩn hủy diệt tư tưởng của nhân dân”[23].
Tháng 4/1989, Gorbachev kêu gọi các ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tuổi đã cao hãy nghỉ hưu. 115 ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã viết đơn xin nghỉ hưu vì tin rằng đất nước sẽ phát triển hơn với đội ngũ được trẻ hóa. Đây chính là sai lầm của những người cộng sản trung thành trong Đảng Cộng sản Liên Xô. Trong ba năm 1987-1989, khoảng 50% cán bộ cơ quan chiến lược trong quân đội, hơn 100 cán bộ chính trị cấp chiến dịch - chiến lược và 30% tướng lĩnh bị cách chức hoặc loại khỏi quân đội với lý do “tư tưởng bảo thủ, không ủng hộ cải tổ”, thay thế họ là những phần tử “cấp tiến”. Từ năm 1986 đến 1988, một loạt cán bộ chủ chốt của các tờ báo có ảnh hưởng lớn tại Liên Xô được thay thế bởi những người ủng hộ chủ trương “Tây hóa” của Gorbachev, từ đó các tờ báo này đã khuynh đảo dư luận, làm cho nhiều người dân ảo tưởng vào phương Tây[24]
Đảng Cộng sản Liên Xô đã trải qua rất nhiều khó khăn thử thách và đã vượt qua tất cả: Năm 1917, 35 vạn đảng viên đã lãnh đạo giai cấp công nhân Nga lật đổ ách thống trị của Sa hoàng, cùng nhân dân chống lại sự can thiệp vũ trang của 14 nước để bảo vệ thành công cách mạng. Năm 1941, 5.540.000 đảng viên đã cùng nhân dân chiến thắng phát xít Đức trong cuộc chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, lãnh đạo công cuộc xây dựng Liên Xô trở thành siêu cường. Vậy nhưng, năm 1991, Đảng Cộng sản Liên Xô với 20 triệu đảng viên lại sụp đổ, không phải do kẻ thù bên ngoài, mà chính là do những mầm mống diễn biến, tự diễn biến tư tưởng bên trong nội bộ Đảng[22].

Diễn biến hòa bình hiện nay[sửa | sửa mã nguồn]

Tiếp sau sự sụp đổ của Liên Xô là sự tan rã hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, đến thập niên 2000, các cuộc "cách mạng sắc màu" - một dị bản của "diễn biến hoà bình" có kết hợp với yếu tố bạo loạn lật đổ - cũng được thực hiện thành công ở một loạt nước. Mặc dù có những điểm không giống nhau, nhưng "cách mạng đường phố""cách mạng Nhung""cách mạng Cam"Mùa xuân Ả Rập... đều có điểm chung: tiến hành hạ bệ chính quyền thông qua biểu tình. Theo Đại tá, PGS, TS Văn Đức Thanh, đây là những cuộc đảo chính lật đổ chính quyền theo kiểu dùng "bạo lực đường phố", sử dụng quần chúng địa phương bị kích động bởi những trung tâm quyền lực từ bên ngoài[21].
Mùa xuân Ả Rập hoặc các cuộc “cách mạng sắc màu” có những điểm chung là[25]:
  • Một là đều nhằm thay đổi chế độ cầm quyền. Nếu các cuộc “cách mạng sắc màu” ở Đông Âu mượn cớ phản đối sự “gian lận trong bầu cử tổng thống” để giành chính quyền thì “Mùa xuân A-rập” xuất phát từ các khủng hoảng kinh tế - xã hội.
  • Hai là phương pháp đều dựa trên cơ sở luận thuyết chính trị mang tên “phản kháng phi bạo lực” mà tác giả là Gene Sharp, một chuyên gia chính trị nổi tiếng ở Mỹ. Nội dung luận thuyết này đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và phổ biến tới nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, biện pháp “phản kháng phi bạo lực” như biểu tình đông người vẫn không loại trừ khả năng sử dụng các biện pháp bạo lực (quân sự) quyết liệt nhất nếu thấy cần thiết.
  • Các nhà tổ chức các cuộc “cách mạng sắc màu” ở Gruzia, “cách mạng cam” ở Ucraina và Mùa xuân Ả Rập ở các nước Bắc Phi và Trung Đông... là các cơ quan tình báo của các nước phương Tây, các tổ chức phi chính phủ, các "quỹ tài trợ dân chủ", thậm chí cả các lực lượng đặc nhiệm từ bên ngoài có chức năng huấn luyện chiến thuật quân sự cho các lực lượng đối lập để nếu cần, các lực lượng đối lập có thể sử dụng chiến tranh để lật đổ chính phủ. Trên thực tế, nhiều cuộc chính biến ở Đông Âu, Trung Đông đã chuyển từ "phi bạo lực" ban đầu sang chiến tranh quy mô lớn (nội chiến Syrianội chiến Ucrainanội chiến Libya...)

Chủ trương của chính quyền Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]

Chủ trương của chính phủ Việt Nam là phải "cảnh giác, đề phòng, và chủ động đối phó, tấn công vào các cáo buộc sai lệch về Việt Nam, vô hiệu hóa các vũ khí, công cụ, chiêu bài chính trị, đặc biệt là các vấn đề tự do, dân chủ, nhân quyền, các vấn đề cao đẹp đã bị lợi dụng làm chiêu bài. Chống lại mục đích chuyển hóa, lật đổ, và thay thế các chế độ xã hội chủ nghĩa của Hoa Kỳ và các nước tư bản phương Tây".[26] Văn kiện Đại hội Đảng CSVN coi diễn biến hòa bình là một trong bốn nguy cơ với Đảng. Theo pháp luật của Việt Nam, một số cá nhân bị kết các tội hình sự "Chống phá nhà nước Xã Hội Chủ nghĩa" hoặc "Âm mưu lật đổ chế độ Xã Hội Chủ nghĩa".
Trong quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam không có lựa chọn nào khác là xây dựng quan hệ kinh tế, chính trị, quân sự và an ninh với các nước Tư bản Chủ nghĩa mà trước kia từng coi là kẻ thù, là tác giả của Diễn biến hòa bình, như Mỹ, Liên minh châu Âu EU. Chính vì vậy, một mặt vẫn tuyên truyền trong nước về sự nguy hiểm của Diễn biến hòa bình, mặt khác, chính phủ Việt nam mềm mỏng hơn trong quan hệ ngoại giao và phát ngôn về Diễn biến hòa bình.
Chính phủ Việt Nam chỉ phát ngôn chung chung, không nêu rõ ai là tác giả của các hoạt động Diễn biến hòa bình.[27] Việt Nam cũng không làm rạch ròi như trước thế nào là chủ nghĩa đế quốc và ai là kẻ thù của chủ nghĩa xã hội. Đồng thời nhà nước Việt Nam cũng tiến hành "tự do hóa về kinh tế", tiến hành từng bước "dân chủ hóa về chính trị", xây dựng nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, sau một số "Cách mạng sắc màu" diễn ra tại các nước Đông Âu, dẫn tới sự bất ổn và sụp đổ của nhiều chế độ chính trị tại một số nước, Việt Nam trở nên quan ngại hơn. Chính phủ Việt nam coi việc xử lý thế nào để vẫn giữ được bản sắc dân tộc và độc lập tự chủ của đất nước là vấn đề lớn mà VN cần phải làm[28]
Nền kinh tế thị trường đầy cám dỗ vật chất rất dễ khiến con người sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, thực dụng, tham nhũng, lãng phí; cán bộ quan liêu, xa dân, sống xa hoa hưởng lạc. Nó cũng sẽ thúc đẩy quá trình phân hóa giàu nghèo trong xã hội và ngay cả trong Đảng, thúc đẩy "tự diễn biến" ngay trong nội bộ Đảng. Tại Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt và triển khai Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ[29]:
“Bây giờ trong Đảng cũng có sự phân hóa giàu nghèo, có những người giàu lên rất nhanh, cuộc sống xa cách người lao động; liệu rồi người giàu có nghĩ giống người nghèo không? Nhà triết học cổ điển Đức Phơ-bách đã từng nói rằng, người sống trong lâu đài nghĩ khác người ở nhà tranh. Mai kia Đảng này sẽ là Đảng của ai? Có giữ được bản chất là đảng cách mạng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc không?”.
Theo Báo Quân đội Nhân dân thì: "Điều họ muốn là dân tộc Việt Nam từ bỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, từ bỏ mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Họ muốn xóa bỏ Đảng Cộng sản Việt Nam, một đảng luôn hoàn thành xuất sắc vai trò lãnh đạo suốt gần 80 năm qua. Đó chính là mục tiêu của chiến lược "diễn biến hòa bình" mà họ cho rằng là nỗi lo sợ quái gở".[30]
Ông Phan Xuân Biên viết trên Tạp chí Tuyên giáo của Đảng ngày 10-4-2009: Bên cạnh dòng tư tưởng chủ đạo là ý thức độc lập dân tộc cao, ý chí tự lực tự cường, kiên trì xây dựng đất nước giàu mạnh, dân chủ, văn minh theo định hướng XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tình hình đang tiềm ẩn nhiều yếu tố bất ổn, tạo ra những thách thức, nguy cơ về an ninh tư tưởng. Hoạt động "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch ngày càng quyết liệt về cường độ; toàn diện về nội dung; đa dạng về phương pháp, hình thức, rộng rãi về lực lượng, thường xuyên về thời gian và ngày càng công khai, tinh vi
"Chúng lợi dụng triệt để bối cảnh quốc tế và trong nước, nhất là tình hình xã hội như tranh chấp, khiếu kiện, đình công; quan liêu, tham nhũng, lãng phí; những vấn đề lịch sử, dân tộc, tôn giáo, tự do, dân chủ, nhân quyền và bằng mọi ngả đường để thực hiện âm mưu nhất quán là nhằm xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng ta - chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đi đến làm suy yếu và thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ chế độ XHCN, đưa nước ta theo con đường TBCN (Tư bản Chủ nghĩa). Dù chưa đạt được âm mưu cuối cùng nhưng các hoạt động "diễn biến hoà bình" kết hợp với nhiều yếu tố khách quan và chủ quan đã tác động đến tư tưởng của một số cán bộ đảng viên, tạo nên sự tự diễn biến "tự chuyển hóa" trong nội bộ Đảng và xã hội với xu hướng ngày càng phức tạp". [19]
Năm 2016, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết 04 về ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ Đảng, trong đó có đoạn: "...sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ."[31]

Chủ trương của chính quyền các nước[sửa | sửa mã nguồn]

Trung Quốc[sửa | sửa mã nguồn]

Chủ tịch Hồ Cẩm Đào trong tuyên bố đầu năm 2012 của mình nhắc nhở các thành viên trong Đảng Cộng sản Trung Quốc cẩn thận với "diễn biến hòa bình", kêu gọi các biện pháp tích cực chống lại "sự thâm nhiễm về văn hóa và tư tưởng" của "các thế lực thù địch".[4] Tuyên bố của ông Hồ Cẩm Đào cho thấy sự xiết chặt kiểm soát tư tưởng trong thời gian tới tại Trung Quốc. Tồn tại qua "hiệu ứng domino" từ sự sụp đổ của khối Xã hội chủ nghĩa những năm cuối thập kỷ 1980, đầu thập kỷ 1990, Đảng Cộng sản Trung Quốc một lần nữa được cảnh báo về mối đe dọa diễn biến hòa bình từ Cách mạng Hoa Nhài hay Cách mạng mùa xuân Ả rập tại Trung Đông và Bắc Phi. Theo một biên tập viên tại Hồng Kông, Đảng Cộng sản Trung Quốc ngày càng thấy khó khăn khi chứng minh tính hợp pháp cho hệ thống chính trị tại Trung Quốc, khi tiếng nói kêu gọi dân chủ hóa ngày càng nhiều.[4]
Trong khi tư tưởng "diễn biến hòa bình" được xem là những tư tưởng thù nghịch ở Trung Quốc, các nhà quan sát đã cho là một vài quan chức cao cấp trong hệ thống cộng sản Trung Quốc như Ôn Gia Bảo đã ủng hộ quá trình này. Những viên chức có lẽ có khuynh hướng cải tổ này, tuy nhiên, chỉ là một thiểu số của đảng cộng sản.[32]
Về mặt văn hóa - xã hội, Chính phủ Trung Quốc kiểm duyệt chặt chẽ mọi nội dung được cho là sẽ gây tác động xấu, làm băng hoại văn hóa truyền thống và đạo đức của đất nước. Ủy ban về Báo chí, Xuất bản, Phát thanh, Điện ảnh và Truyền hình Trung Quốc hoạt động rất mạnh tay trong lĩnh vực an ninh văn hóa. Tất cả những bộ phim Trung Quốc không bao giờ được phép xuất hiện những cảnh quay mô tả hoạt động quan hệ tình dụckhỏa thân. Các mối quan hệ và hành vi bất thường như loạn luânđồng tính luyến áiấu dâm cũng bị cấm hoặc phải cắt bỏ mọi cảnh quay liên quan.[33]
Trung Quốc cũng kiểm soát chặt các nội dung trên internet. Hiệp hội dịch vụ Netcast Trung Quốc có thẩm quyền kiểm duyệt các nội dung trực tuyến, mọi nội dung hiển thị hành vi tình dục, giới tính bất thường, bao gồm loạn luânđồng tính luyến áilạm dụng tình dụcchuyển đổi giới tính... Các quy định khác cũng nêu rõ nội dung sẽ bị xóa bỏ nếu khuyến khích "lối sống xa hoa thác loạn", đăng "chi tiết cảnh bạo lực và tội ác" hoặc "hành vi khiêu dâm" bao gồm cả thủ dâm. Tất cả những phim ảnh, bài báo vi phạm quy định này đều sẽ bị gỡ bỏ khỏi Internet. Quy định này đã được ban hành năm 2017, sau khi chính phủ Trung Quốc nhận định sự xuất hiện dày đặc của các bộ phim về đồng tính trên Internet đã làm băng hoại giới trẻ Trung Quốc bởi nội dung gây suy đồi đạo đức và văn hóa gia đình[33].

Nga[sửa | sửa mã nguồn]

Theo báo Pravda của Nga cho là Quỹ Dân chủ Mỹ (NED - National Endowment for Democracy) có mặt trên khắp đất nước Nga, thâm nhập vào diễn biến chính trị ở Nga hiện nay, giúp đỡ "trung tâm tin tức quốc tế" đặt tại Moskva để hơn 80 tổ chức phi chính phủ xuyên quốc gia có thể tận dụng "trung tâm tin tức" này để tổ chức họp báo về các vấn đề. Tổ chức này cũng tài trợ cho nhiều tổ chức thanh niên và các buổi thảo luận dưới nhiều hình thức khác nhau với mục đích "bồi dưỡng thế hệ lãnh đạo mới cho đất nước Nga". Chỉ trong năm 2010, NED tiêu tốn 278.300 USD để tài trợ cho hàng chục chương trình như thế này trên khắp đất nước Nga. Theo học giả người Mỹ Frederick William Engdahl qua trích dẫn bởi báo Đất Việt thì "Washington không muốn Moscow xuất hiện kẻ mạnh. Sự trở lại của Putin sẽ trở thành chướng ngại lớn nhất của Mỹ và châu Âu... Đối với Washington, nước Nga có dân chủ thật sự hay không không quan trọng. Quan trọng nhất là phải lật đổ chướng ngại vật lớn nhất ngăn cản kế hoạch của Mỹ - Putin".[34]
Năm 2006, Chính phủ Nga đã quyết định cấm hoạt động tổ chức Giám sát nhân quyền, Ân xá quốc tếViện Cộng hòa quốc tế... cùng hơn 90 tổ chức phi chính phủ (NGO). Một trong những nguyên nhân chính là sự can thiệp vào nội bộ Nga của vài tổ chức thuộc NGO. Tuy gọi là “phi chính phủ” nhưng các tổ chức thuộc dạng này ngày càng liên hệ chặt chẽ với chính phủ nhiều nước, thậm chí hiện diện trong các chiến dịch tranh cử chứ không đơn thuần hoạt động nhân đạo. Tờ The Economist đã đưa ra câu hỏi rằng liệu có phải vài NGO là bù nhìn của (một số) chính phủ. Một trong những nguyên nhân chính của hiện tượng bùng nổ NGO trong vài năm gần đây là sự tài trợ từ các chính phủ phương Tây[35]
Chính phủ Nga cảnh báo việc Mỹ tiếp tục tài trợ cho các tổ chức này tại Nga đang gây ảnh hưởng tới quan hệ giữa hai bên, nhất là Mỹ đang áp dụng sách lược cứng rắn trên các vấn đề liên quan đến lợi ích của Nga như vấn đề Iran và Syria.[36] Thứ trưởng Ngoại giao Nga Sergei Ryabkov nói với hãng thông tấn Interfax"Hành động này đến mức trở thành một vấn đề trong quan hệ giữa hai nước. Chúng tôi thực sự quan ngại về việc Washington tài trợ cho các nhóm và phong trào nhất định tại Nga".[37]
Năm 2013, nước Nga dưới thời Tổng thống Nga Vladimir Putin đã ra luật cấm mọi hình thức tuyên truyền về hôn nhân đồng giới[38]. Bộ luật cấm những sự kiện cổ vũ cho người đồng tính, quy định việc cung cấp những thông tin “tuyên truyền việc về đồng tính nữ, lưỡng tính và chuyển giới” cho trẻ vị thành niên là phạm pháp, đồng thời các sự kiện cổ vũ cho quan hệ đồng tính cũng bị cấm. Đây là một nỗ lực mới nhằm cổ vũ những giá trị truyền thống của nước Nga và chống lại chủ nghĩa tự do kiểu phương Tây, mà Chính phủ Nga tin rằng đang làm băng hoại giới trẻ và phá hủy nền tảng luân lý gia đình của nước Nga, khiến nước Nga suy yếu[39] Bộ luật cấm tuyên truyền đồng tính đã được Duma Quốc gia Nga (Hạ viện Nga) thông qua với số phiếu tuyệt đối 436 thuận - 0 phiếu chống, và 88% người dân Nga được phỏng vấn đã bày tỏ ủng hộ đối với lệnh cấm[40] Bên cạnh đó, từ năm 2015, Chính quyền thành phố Moskva và quốc hội Nga đã đề ra Ngày tình yêu gia đình để tập hợp các chiến dịch tuyên truyền bảo vệ giá trị gia đình truyền thống, ngăn chặn sự truyền bá của các nhóm hoạt động đồng tính, các tổ chức phi chính phủ đòi hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính[41].

Một số ý kiến của phương Tây[sửa | sửa mã nguồn]

Các nước phương Tây[42] và các tổ chức nhân quyền, cũng như một số tổ chức quốc tế (thuộc khối Liên Âu[43] và Liên hiệp quốc) vẫn phê phán các hoạt động trấn áp lực lượng đối lập của Chính phủ Việt Nam, coi đây là "vi phạm nhân quyền", vi phạm "quyền tự do tư tưởng" và "tự do ngôn luận".[44]
Nhà bình luận toàn cầu (globalist) Roger Cohen của tờ New York Times viết rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam xác định kẻ thù số một là Diễn biến hòa bình.
. Dù vậy Cohen cho rằng, Việt Nam không hẳn là "phi tự do" (un-free) tới mức công dân của họ phải "ngứa ngáy tìm tự do". Sự kết hợp kinh tế thị trường với chủ nghĩa dân tộc đang thắng thế.
Riêng về mảng hợp tác giáo dục, theo đại sứ Mỹ Michael W. Michalak phát biểu năm 2010 tại Việt Nam thì những ý kiến ngộ nhận cho rằng việc đổi mới giáo dục mà Việt Nam đang tiến hành là do sức ép của Mỹ, chính là một phần diễn biến hòa bình là "nhảm nhí và không đúng sự thật". Ông cho biết:

Ý kiến từ những nhân vật bất đồng chính kiến tại Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]

Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, nhà nghiên cứu chính trị cao cấp của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS) của Singapore cho là mối quan ngại về 'tự diễn biến' và 'diễn biến hòa bình' trong giới lãnh đạo cao cấp của Đảng Cộng sản Việt Nam là "tư duy đấy là một tư duy theo lối mòn thôi." [1]
Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo đặt câu hỏi: "Và cả một chiến sách "chống diễn biến hòa bình" không mệt mỏi. Hòa bình ai chả muốn. Vậy mà lâu nay tôi vẫn không hiểu tại sao lại "chống diễn biến hòa bình"? Có từ gì hay hơn, rõ hơn không? Nếu chống những người âm mưu phản bội lại dân tộc thì cũng nên nói rõ ra, chứ cứ nói lờ mờ thế thật khó mà hiểu nổi.".[48]
Nhà thơ Bùi Minh Quốc cho rằng:

Không có nhận xét nào: